Tin tức - Sự kiện

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm thành lập chiến khu Đ (1946-2016)

 

I. CHIẾN KHU Đ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “Một cuộc đổi đời chưa từng có với người Việt Nam”. Từ một Đảng hoạt động bí mật, Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.

Vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng đã phải đương đầu với nhiều khó khăn, phức tạp như: Thiên tai, lũ lụt, nạn đói ở miền Bắc và thù trong, giặc ngoài. Đặc biệt, thực dân Pháp không chịu mất đi một thuộc địa béo bở làm giàu cho chính quốc, chúng gấp rút huy động quân đội ở Viễn Đông, Bắc Phi, chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp ngang nhiên khởi hấn, nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, Gia Định. Dưới sự lãnh đạo của Xứ Ủy Nam bộ, nhân dân Sài Gòn, Gia Định đã nhất tề đứng lên chống giặc, mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Sáng ngày 23/9/1945, Xứ ủy và UBND Nam bộ họp hội nghị khẩn cấp tại đường Cây Mai (Chợ Lớn). Hội nghị chủ trương kiên quyết đánh Pháp, kiên quyết phát động nhân dân Nam bộ đứng dậy kháng chiến. Thường vụ Trung ương Đảng, Hồ Chủ tịch nhất trí với quyết tâm của Xứ ủy và UBND Nam bộ kêu gọi đồng bào cả nước chi viện sức người sức của cho Nam bộ.

Được bổ sung thêm lực lượng, ta mở trại huấn luyện quân sự tại miếu Đất Cuốc. Hàng trăm thanh niên tự vệ chiến đấu, công nhân, nông dân, sinh viên được trang bị những kiến thức quân sự cơ bản. Học viên học xong, một nửa trở về các xã làm nòng cốt cho du kích địa phương, một nửa ở lại gia nhập bộ đội. Cuối tháng 11 năm 1945, bộ đội Huỳnh Văn Nghệ tổ chức thành 04 phân đội, gọi là Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Phân đội 1 được bố trí hoạt động ở vùng căn cứ thuộc các xã: Tân Hòa, Tân tịch, Mỹ Lộc, Thường Lang, Lạc An. Đầu tháng 11 năm 1945, đồng chí Nguyễn Bình được Trung ương cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam bộ. Trong khi đi nắm tình hình ở các chiến trường, đồng chí Nguyễn Bình về Tân Uyên khảo sát thực địa. Nhận rõ vị trí, địa thế lợi hại của vùng rừng Tân Uyên, đồng chí đã thảo luận với Ban Chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hòa về việc chọn khu vực Lạc An lập căn cứ địa cho toàn khu.

Ngày 20/11/1945, đồng chí Nguyễn Bình triệu tập hội nghị quân sự tại An Phú Xã (Thủ Dầu Một). Hội nghị thảo luận các vấn đề về chính trị, kinh tế và đặc biệt nhấn mạnh công tác quân sự nhằm thống nhất tổ chức, chỉ huy, định chương trình và phân chia địa bàn hoạt động cho các đơn vị vũ trang. Ngày 10/12/1945, tại Đức Hòa (Chợ Lớn) hội nghị quân sự toàn Nam bộ được triệu tập. Chấp hành nghị quyết hội nghị Đức Hòa, ngày 17/12/1945, cơ quan Khu bộ Khu 7 về đứng chân và xây dựng hệ thống phòng thủ ở Tân Uyên. Lạc An tên một xã trong vùng căn cứ thuộc Tân Uyên - nơi đứng chân của Vệ quốc đoàn Biên Hòa được chính thức xây dựng thành căn cứ địa kháng chiến của chiến khu 7.

Đầu năm 1946, Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (25/12/1945) đến các chiến trường ở Nam bộ. Chỉ thị nêu rõ: Phải chọn đóng ở những địa điểm chiến lược lợi hại: Tiến có thể đánh, lùi có thể giữ… kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui phải hết sức chu đáo. Điều cốt tử là phải giữ vững liên lạc giữa các chiến khu để thống nhất chỉ huy.

Sau hội nghị Cù Lao Vịt, tháng 5/1946, tại Xóm Đèn, hội nghị quân sự tỉnh Biên Hòa được triệu tập. Hội nghị đã nhất trí thông qua 02 vấn đề chính: Một là, nhập Vệ quốc đoàn huyện Châu Thành, trường du kích Sở Tiêu với Vệ quốc đoàn Biên Hòa (bộ đội Huỳnh Văn Nghệ) thành lực lượng vũ trang (LLVT) thống nhất của tỉnh, lấy tên là Vệ quốc đoàn Biên Hòa; Hai là, xây dựng Chiến khu Đ (CKĐ) thành căn cứ chính thức của tỉnh Biên Hòa.

Tháng 6/1946, Bộ chỉ huy Khu 7 mở hội nghị bàn việc thống nhất và chỉ huy các LLVT trong toàn khu, tổ chức bộ đội trên địa bàn từng tỉnh, thành các chi đội. Theo chủ trương của hội nghị, ngay trong tháng 6, Vệ quốc đoàn Biên Hòa (gồm bộ đội Huỳnh Văn Nghệ và bộ đội Châu Thành) và Vệ quốc đoàn Long Thành thống nhất lại, tổ chức thành chi đội, lấy phiên hiệu là chi đội 10. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm chi đội trưởng. Sự thành lập chi đội 10 đã đánh dấu một bước phát triển mới trên bước đường xây dựng LLVT của tỉnh Biên Hòa nói chung và trên địa bàn CKĐ nói riêng. Các đơn vị bộ đội địa phương hoạt động riêng rẽ giờ đây được thống nhất chỉ huy và hành động tạo điều kiện cho việc tập trung tiến hành những trận đánh lớn sau này. Chi đội 10 ra đời còn tạo điều kiện để bảo vệ CKĐ được vững chắc hơn trên cả ý nghĩa tập trung lực lượng chiến đấu tại chỗ và thu hút phân tán địch bảo vệ căn cứ từ xa.

Vậy là, do nhu cầu đặt ra ngày càng cấp thiết của cuộc kháng chiến từ những ngày đầu chống Pháp, CKĐ được hình thành khởi đầu chủ yếu từ hạt nhân của 05 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Tên CKĐ lúc đầu lấy luôn tên của một trong những địa điểm nói trên, gọi là chiến khu Đất Cuốc hay chiến khu Lạc An, sau từ “Đ” còn được gọi bằng mật danh dùng để chỉ vị trí Tổng hành dinh Khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ được tính theo thứ tự A, B, C….

Từ năm 1948, 1949 trở đi, CKĐ được mở rộng ra, lấy đường 16 từ phía Tây và sông Đồng Nai từ phía Nam làm ranh giới để không ngừng mở mang. Phía Bắc lên tới Phước Hòa, phía Đông tới Sông Bé, rồi vượt qua Sông Bé phát triển mãi lên phía Bắc và Đông Bắc. Dù vậy, phạm vi chủ yếu của CKĐ nằm trên vùng đất: Tây giáp đường 16 đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; Bắc giáp Sông Bé đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng; Đông vẫn giáp Sông Bé đoạn từ Chánh Hưng đến Ngã ba Hiếu Liêm và Nam giáp sông Đồng Nai đoạn từ Ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên.

Tháng 5/1951, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố trí lại chiến trường, lấy sông Tiền Giang làm ranh giới chia Nam bộ thành hai phân khu: Phân Liên khu miền Đông và Phân Liên khu miền Tây. Căn cứ vào tình hình cụ thể ở Nam bộ, Trung ương Cục chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng căn cứ địa cho từng chiến trường và cả Nam bộ. Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ ra chỉ thị cụ thể trong năm 1951: Phải gấp rút xây dựng và kiện toàn căn cứ địa, nhất là căn cứ địa về mọi mặt quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Yếu tố chính trong việc xây dựng căn cứ địa là quần chúng nhân dân phải thấy rõ thành trì cách mạng, phải lo xây dựng trong từng người, trong dân cày.

Thực hiện chủ trương trên, Ban Căn cứ địa Nam bộ được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Trí làm Trưởng ban (gọi là Ủy trưởng căn cứ địa). Tại CKĐ, Ban Căn cứ địa Nam bộ họp hội nghị đề ra nội dung phương hướng xây dựng căn cứ trong tình hình mới. Hội nghị đã xác định xây dựng một hệ thống căn cứ địa chính cho toàn chiến trường Nam bộ gồm có: Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đồng Tháp Mười và Chiến khu U Minh. Riêng tại CKĐ, Ban Căn cứ địa Nam bộ do đồng chí Đào Văn Quang trực tiếp phụ trách phối hợp với Ban Căn cứ địa tỉnh Thủ Biên do đồng chí Vũ Duy Hạnh làm trưởng ban đã xúc tiến việc xây dựng mở rộng và hoàn thiện căn cứ, phát triển CKĐ từ căn cứ của tỉnh Biên Hòa và Khu 7 lên thành một trong những căn cứ chính của Nam bộ. Hội nghị xác định việc nâng cấp căn cứ không chỉ đơn thuần bảo đảm địa bàn đứng chân cho cơ quan cấp trên mà phải tập trung xây dựng chiều sâu một cách toàn diện, đưa căn cứ ở vào thế chiến lược liên hoàn trong phạm vi chiến trường toàn Miền.

Những sự kiện trên đây ghi nhận một bước tiến mới quan trọng trong công tác xây dựng căn cứ địa ở Nam bộ. Từ căn cứ của tỉnh Biên Hòa và Khu 7, CKĐ giờ đây trở thành một trong những căn cứ địa cơ bản của cả Nam bộ, tạo điều kiện quan trọng về địa bàn và thực lực để quân và dân ta bước vào thời kỳ gay go hơn trên chiến trường miền Đông.

Giữa lúc CKĐ đang gặp khó khăn thì các văn kiện về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (02/1951), Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa II (3/1951) vào đến Nam bộ. Nghị quyết Đại hội Đảng xác định đường lối chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, đề ra những chủ trương lớn xây dựng LLVT, xây dựng hậu phương, động viên nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến. Các văn kiện đã đề ra nội dung cụ thể trong công tác xây dựng căn cứ địa một cách hệ thống, cơ bản và toàn diện cả về chính trị, quân sự, kinh tế. Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng qua các văn kiện trên đã tiếp thêm sinh khí mới cho cuộc kháng chiến ở Nam bộ.

Đầu tháng 10/1952, một cơn bão lớn kéo đến các tỉnh miền Đông. Lương thực, hoa màu sắp đến ngày thu hoạch bị hư hại nặng, cây rừng đổ ngổn ngang, nước sông Đồng Nai dâng lên đột ngột, chảy ào ạt, cuốn phăng cây cối, nhà cửa hai bên bờ và cả những thú vật lớn như voi, cọp. Vùng căn cứ dọc bờ sông biến thành một thác nước mênh mông, có chỗ ngập đến 5-7 mét, kéo dài trên nửa tháng mới rút dần, gây nên úng lụt nghiêm trọng. Trận bão lụt tàn phá CKĐ rất nặng nề, một số ít cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị nước cuốn trôi cùng với nhiều tài sản khác. Nhà cửa doanh trại bị đổ sập hoặc bốc tung hết mái. Toàn bộ cây lương thực, hoa màu bị xóa sạch. Các kho tàng cất giữ lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, sách báo bị ẩm mốc, mục rữa. Vũ khí, đạn dược bị sét rỉ, hư hỏng. Lợi dụng lúc ta đang gặp khó khăn nghiêm trọng vì thiên tai, giặc Pháp tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm xóa sạch căn cứ. Chúng liên tục hành quân càn quét, bao vây, ngăn chặn các ngã đường vận chuyển liên lạc, nhất là vận chuyển lương thực, tuyên truyền chiêu dụ cán bộ, chiến sĩ ra đầu thú.

Thiên tai và địch họa đã làm phong trào cách mạng tại CKĐ đứng trước những thử thách to lớn tưởng chừng khó có thể vượt qua. Danh từ CKĐ được cán bộ, chiến sĩ gọi đùa là “chiến khu đói”, “chiến khu đau”. Tại căn cứ chiến khu Dương Minh Châu, nhạc sĩ Hoàng Việt sáng tác bài: “Lên ngàn” phản ánh những khó khăn, gian khổ của giai đoạn lịch sử này “Gíó mưa dập đổ mái nhà/bao nhiêu gia đình tan hoang/đau thương lệ rơi chứa chan”.

Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam họp ra chỉ thị khắc phục khó khăn, phát động phong trào sản xuất cứu đói và kêu gọi đồng bào khắp nơi ủng hộ nhân dân vùng bão lụt. Chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ tập trung tiền mặt cung cấp cho quân nhu Phân liên khu miền Đông mua gạo. Đồng bào, cán bộ, bộ đội miền Tây tổ chức “Tuần lễ ủng hộ miền Đông”. Lao động lấy tiền quyên gởi hàng triệu đồng tiền Đông Dương ngân hàng, hàng chục tấn gạo, thực phẩm và vật phẩm khác. Các tỉnh miền Đông vận động đồng bào vùng không bị bão lụt san sẻ khó khăn với vùng bị bão lụt. Công nhân Cao su Biên Hòa góp gạo cứu tế cho đồng bào ở CKĐ bằng cách báo nhân số “ma”, chấm công “ma” để lấy gạo dư. Ngoài ra, các gia đình công nhân tiết kiệm, giảm bớt khẩu phần ăn hàng ngày để lấy gạo cứu tế, các gia đình ở vùng tạm bị chiếm tìm cách gửi cho gia đình bà con hoặc con em đi kháng chiến trong khu tiền, gạo, thuốc men, vải vóc. Sự giúp đỡ này đã giải quyết được 50% nhu cầu về lương thực của quân và dân tại chiến khu trong ba tháng sau bão lụt. Nó biểu hiện sâu sắc tấm lòng tin yêu và luôn hướng về cách mạng, hướng về CKĐ của đồng bào khắp nơi trong vùng tạm bị chiếm, khích lệ những người ở lại CKĐ quyết tâm vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ trước mắt.

Các LLVT tại chiến khu khắc phục khó khăn để chống càn, bảo vệ mùa màng. Đại đội bộ đội địa phương huyện được bổ sung thêm 02 tiểu đội, tổ chức chiến đấu chống càn thu được kết quả khá. Cuối mùa mưa năm 1953, lần đầu tiên tại Đất Cuốc, tỉnh Thủ Biên tổ chức trọng thể và tưng bừng đại hội mừng công. Hàng trăm đại biểu ưu tú từ ba vùng kháng chiến về báo cáo thành tích và học tập kinh nghiệm. Đại hội khẳng định những thành tựu mà quân và dân Thủ Biên đã giành được trong 07 năm kháng chiến. Nhiều đại biểu được tặng danh hiệu “chiến sĩ nông nghiệp” trong phong trào sản xuất tự túc để đánh giặc.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục về “chuẩn bị đón lấy thời cơ mới”, kịp thời khuếch trương những chiến thắng về quân sự, chính trị, kết hợp với chiến dịch địch ngụy vận để phối hợp với chiến trường miền Bắc, đầu mùa khô năm 1953, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông đề ra ba nhiệm vụ chính: Một là, giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích; Hai là, củng cố và mở rộng căn cứ địa; Ba là, đẩy mạnh công tác địch ngụy vận với phương châm du kích chiến là chính, học tập đánh vận động trong điều kiện thuận lợi.

Đây là nghị quyết chuyên sâu đầu tiên về căn cứ địa ở Nam bộ. Sự ra đời của nghị quyết đã kịp thời uốn nắn những quan niệm chưa đủ, đúng về vị trí, nội dung, phương pháp xây dựng căn cứ trước đó, chỉ dẫn công tác củng cố và mở rộng căn cứ được tiến hành thuận lợi, đúng hướng, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ tạo thế tạo lực phối hợp với chiến trường chính tại CKĐ.

II. CHIẾN KHU Đ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ (1954-1975):

Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, tại CKĐ không còn LLVT cách mạng, không còn chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Ngày 15/8/1954, tại Bà Đã đã diễn ra cuộc mít tinh lớn chào mừng thắng lợi của cuộc kháng chiến. Lần đầu tiên sau 09 năm kháng chiến ròng rã, giữa lòng chiến khu, dưới bầu trời cao rộng, hàng ngàn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ từng gắn bó máu thịt với vùng căn cứ ác liệt này đã về dự lễ, hát vang bài “Tiến quân ca”, nghẹn ngào nhắc lại những thành quả cách mạng to lớn đã đổi bằng chính máu của mình trong cuộc chiến đấu.

Cuộc kháng chiến đã giành được thắng lợi. Nhưng nửa nước còn do lực lượng quân đội “Liên hiệp Pháp” tạm thời chiếm đóng. Đế quốc Mỹ lăm le nhảy vào miền Nam. Nhiệm vụ cách mạng phía trước còn rất nặng nề. Cuộc mít tinh trở thành cuộc chia tay lưu luyến giữa người đi tập kết và người ở lại. Người ra đi xác định quyết tâm: Thắng lợi. Người ở lại xác định: Vinh quang. Cán bộ, chiến sĩ tập kết hứa quyết tâm học tập tốt trên quê hương miền Bắc sau một thời gian ngắn sẽ trở về. Người ở lại xác định trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đấu tranh sắp tới vì sự nghiệp giải phóng quê hương, thống nhất Tổ quốc.

Với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ lập tức dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và đánh phá phong trào cách mạng miền Nam một cách có hệ thống. Mỹ đã nhận thức ngay rằng CKĐ là một căn cứ địa của cách mạng uy hiếp trực tiếp các cơ quan đầu não của chúng ở miền Đông và Sài Gòn. Do vậy, một trong những mục tiêu hàng đầu của Mỹ ngụy là triệt phá và chia cắt CKĐ cùng với các căn cứ quan trọng khác ở miền Đông.

Trong hai năm 1954-1955, Mỹ-ngụy đã cưỡng bức hơn 150 ngàn đồng bào Công giáo từ miền Bắc vào bố trí dọc lộ 1, 15, 20 cửa ngõ sài Gòn và ngoại vi CKĐ. Ngay trong căn cứ, Diệm bố trí gần một vạn đồng bào Công giáo giáo di cư thành lập xã Thái Hưng (thuộc xã Lạc An, huyện Tân Uyên- thuộc CKĐ). Hàng loạt dinh điền được địch lập nên ở Khánh Vân, Sình, Bà Đã, Váng Hương, Bàu Cá Trê, Nước Vàng… Rõ ràng âm mưu của Mỹ-Diệm là nhằm xây dựng một lực lượng chính trị làm hậu thuẫn cho chính sách thực dân mới, tạo ra mâu thuẫn giữa dân trong địa bàn chiến khu và đồng bào công giáo. Ở phía Nam CKĐ, địch cho bọn tư sản và công chức cao cấp lập nhiều trại be với danh nghĩa khai thác lâm sản, nhưng mục đích chính là phá rừng, ủi đường (nhiều đường ủi mang tên Trần Lệ Xuân) để xẻ ngang, cắt dọc CKĐ, phục vụ yêu cầu kiểm soát đánh phá vùng căn cứ kháng chiến. Diệm và Nhu công khai nói rõ ý đồ của chúng, biện pháp xẻ đường đưa dân vào mật khu Việt Cộng để dùng dân đẩy cộng sản ra khỏi vùng đất đó. Dinh điền là nơi cung cấp tình báo, nơi xuất phát để hành quân, rào chặn xâm nhập.

Tháng 12/1956, căn cứ vào “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn, Xứ ủy Nam Bộ quyết định: “… Tích cực xây dựng LLVT tuyên truyền, lập các đơn vị vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ miền núi…” Đối với miền Đông Nam bộ, một địa bàn chiến lược, Xứ ủy triển khai các chủ trương về đấu tranh cho các địa phương moi súng, xây dựng LLVT. Đến năm 1957, miền Đông Nam bộ đã hình thành các vùng căn cứ lớn: Căn cứ Đông Bắc gồm CKĐ (cũ) được mở rộng lên giáp biên giới Việt Nam-Campuchia, sau gọi là chiến khu A. Vùng căn cứ Tây Bắc gồm căn cứ Dương Minh Châu (cũ) và rừng núi tỉnh Tây Ninh sau gọi là khu B. Khu căn cứ Thị Tính, Long Nguyên (Bến Cát) gọi là khu C. Các căn cứ núi Mây Tàu, Hắc Dịch, Rừng Sác, Sông La Ngà là khu E. Từ CKĐ (khu A) đường liên lạc bộ được nối thông với các căn cứ.

Tháng 02/1964, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ hai chỉ đạo phải “giữ vững, xây dựng, mở rộng các khu căn cứ rừng núi và đồng bằng theo kịp sự phát triển của cách mạng, nhất là trên các địa bàn chiến lược”.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và Trung ương Cục, Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu miền Đông quyết định mở một đợt hoạt động hè thu nhằm đánh bại hoàn toàn âm mưu bình định lập ấp chiến lược của địch; phá thế bao vây căn cứ, mở rộng địa bàn đứng chân và hành lang chiến lược từ CKĐ về hướng Biên Hòa, Bà Rịa-Long Khánh xuống bờ biển Xuyên Mộc. Địa bàn hoạt động là vùng căn cứ thuộc tỉnh Phước Thành (Bình Dương) và Vĩnh Cửu (Biên Hòa). Thời gian hoạt động từ tháng 5 đến tháng 9/1964, chia làm hai bước:

Bước 1 của đợt hoạt động kết thúc thắng lợi: Từ tháng 5 đến tháng 6/1964, ta bức rút san bằng các đồn bót, phá rã các ấp chiến lược địch lấn sâu vào căn cứ: Bàu Trê, Sình, Bà Đã, Bàu Phụng, Suối Ngang... CKĐ được mở rộng về hướng Tây Nam áp sát thị trấn Tân Uyên.

Sau khi sơ kết rút kinh nghiệm bước 1, Ban chỉ huy quyết định triển khai bước 2 của đợt vào tháng 7/1964, mở đầu là trận đánh tiêu diệt đồn Cây gáo và chi khu Hiếu Liêm lần thứ hai nằm ở ngã ba vàm Sông Bé. Đợt hoạt động hè thu năm 1964 của chủ lực quân khu kết thúc thắng lợi. Các cứ điểm quân sự của địch ở phía Nam CKĐ hoàn toàn bị tiêu diệt, hệ thống hàng rào ấp chiến lược của địch cắm sâu vào căn cứ bị phá vỡ.

Mở rộng CKĐ về hướng Tây và Tây Nam giáp lộ 16 và bờ sông Đồng Nai, ta đã tạo một bàn đạp trực tiếp uy hiếp các cơ quan đầu não của địch ở Biên Hòa và Sài Gòn. Đồng thời, ta mở được một hành lang chiến lược từ CKĐ qua Trị An, Cây Gáo về lộ 20 nối liền xuống Long Khánh-Bà Rịa ra giáp Biển Đông, tạo một bàn đạp để quân chủ lực có điều kiện mở những chiến dịch lớn, tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi quyết định.

Tháng 7/1969, Trung ương Cục tổ chức hội nghị lần thứ 9 đã đề ra nhiệm vụ của quân dân miền Nam: Khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, phát triển thế tiến công chiến lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại chiến lược “quét và giữ”, chính sách “bình định” và mục tiêu, biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ hóa” chiến tranh của địch”. Trong phương hướng, công tác thời gian trước mắt, nghị quyết nhấn mạnh phải mở rộng và xây dựng căn cứ cách mạng.

Tháng 7/1971, Trung ương Cục đã họp hội nghị tổng kết tình hình chiến trường miền Nam, đề ra phương hướng, nhiệm vụ mới. Đặc biệt, Trung ương Cục nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ: Xây dựng và củng cố, phát triển hậu phương vững mạnh, mở rộng căn cứ miền Đông Nam bộ nối liền với Tây Nguyên và đồng bằng, giữ vững đường hành lang chiến lược từ ngoài vào và các đường hành lang từ biên giới xuống.

Trong thời gian này, CKĐ - căn cứ phân khu 5, phân khu Thủ Biên, Khu ủy và Quân khu 7, đã trải qua một thời kỳ cực kỳ ác liệt, khó khăn tưởng chừng không vượt qua đuợc. Các lực lượng của địa phương cùng chủ lực Quân khu, Miền đã kiên quyết bám trụ, chiến đấu bền bỉ, giữ vững căn cứ, đánh bại âm mưu bình định và cô lập căn cứ của địch. Với chiến dịch Nguyễn Huệ, quân dân CKĐ cùng chủ lực Miền đã mở thông tuyến hành lang chiến lược biên giới Cambuchia-Bù Đốp-Phước Long và CKĐ-Nam Phước Long- Tây Nguyên với đoàn 559, tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương, góp phần đưa cách mạng miền Đông phát triển lên một bước, giành thắng lợi mới.

Ngày 27/01/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris. Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến và xảo quyệt, đế quốc Mỹ đã ra sức phá hoại hiệp định, nhất là điều khoản về ngừng bắn. Chúng tiếp tục tăng cường viện trợ quân sự và phương tiện chiến tranh cho ngụy quyền Sài Gòn, đồng thời dùng quân ngụy để tiếp tục chiến tranh.

Tháng 6/1973, Quân ủy Miền đã ra nghị quyết xác định nhiệm vụ của các LLVT: Kiên quyết và chủ động thực hành phản công, tấn công đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh, kết hợp với đấu tranh chính trị và pháp lý của quần chúng, kết hợp chặt chẽ ba mũi, đẩy mạnh chiến tranh du kích tiêu diệt và làm tan rã nhiều địch, nhằm giữ vững, mở rộng, hoàn chỉnh vùng giải phóng căn cứ địa…

Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Miền, đầu tháng 6/1973, bộ đội huyện Phú Giáo, Đồng Xoài cùng với trung đoàn 14 sư đoàn 7 Miền tiến công bức rút một số đồn bót địch đóng trái phép trên đường 14. Ta làm chủ đường 14 đoạn từ Bố Lá đến Đồng Xoài, cắt đứt giao thông địch nhiều ngày. Cuối năm 1973, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch mùa khô 1973-1974 phản công và tiến công nhằm đánh phá bại kế hoạch bình định, mở hành lang, tạo bàn đạp tiến công, từng bước mở rộng hoàn chỉnh vùng giải phóng miền Đông Nam bộ, tạo thế và phát triển lực lượng chuẩn bị cho đợt mùa mưa 1974 giành thắng lợi lớn hơn.

Trong lúc chiến dịch mùa khô 1973-1974 đang phát triển, Trung ương Cục đã ra Chỉ thị 01/CT/74 vạch rõ những công tác cụ thể để chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến lược trong năm 1974. Chỉ thị 01 nhấn mạnh “Công tác xây dựng căn cứ là một vấn đề rất lớn, rất cơ bản, rất bức thiết trước mắt cũng như lâu dài. Phải tạo được sự liên hoàn giữa địa phương, đơn vị quân đội của khu và chủ lực Miền”. Thực hiện chỉ thị 01, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã xây dựng và thực hiện kế hoạch cụ thể nhằm xây dựng căn cứ cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh ...

Chiến dịch mùa khô 1973-1974 kết thúc, quân dân miền Đông, trong đó có quân dân CKĐ (gọi là khu A) kết hợp chặt chẽ với những đòn tiến công của quân chủ lực Miền và các địa phương đã giành được thắng lợi lớn. Căn cứ CKĐ đã được mở rộng và hoàn chỉnh giáp với Nam Tây Nguyên về phía Bắc và Đông, mở được những hành lang nối thông khu B (Bắc Tây Ninh), khu C (tam giác sắt) tạo thành căn cứ địa nối thông liền với hậu phương, trực tiếp uy hiếp địch ở Sài Gòn và miền Đông.

Như vậy, với chiến dịch đường số 14, phạm vi CKĐ đã được mở rộng phát triển đến mức cao nhất. Toàn bộ căn cứ địa nằm ở phía Bắc sông Đồng Nai, phía Tây giáp địa giới 02 tỉnh Bình Long và Phước Long cũ, phía Bắc giáp biên giới Việt Nam-Campuchia và phía Đông giáp địa giới 03 tỉnh: Bình Dương, Bình Phước và Đắc Lắc. Mở rộng CKĐ, ta đã củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, từ rừng núi Trị Thiên đến Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. CKĐ đã thực sự thành một hậu phương lớn và trực tiếp của miền Đông Nam bộ, nơi tiếp nhận, triển khai binh khí, kỹ thuật và cơ sở vật chất từ Trung ương xuống các chiến trường; đồng thời, nó là một bàn đạp để các binh đoàn chủ lực tiến công vào hang ổ đầu não địch ở Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

III. NHỮNG TRẬN ĐÁNH TIÊU BIỂU XUẤT PHÁT TỪ CKĐ

1. Trận đánh đoàn xe lửa ở Bảo Chánh

Ngày 19/5/1946, kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chi đội 10 đánh đoàn xe lửa ở Bảo Chánh và thu nhiều súng của địch. Tháng 6/1946, chi đội 10 tiếp tục đánh đoàn xe lửa quân sự tại Trảng Táo, thu 22 súng và 10 tấn gạo. Tháng 6/1946, chi đội 10 liên tiếp giành được thắng lợi trong trận đánh ở Bảo Chánh lần thứ hai, trận tập kích diệt bót cầu La Ngà, trận diệt đồn Bình Lộc. Đặc biệt, ngày 14/7/1946, chi đội 10 tập trung lực lượng lớn gồm 400 người với 300 súng trường, 30 tiểu liên, 08 trung liên, 02 đại liên, 06 phóng lựu và 02 quả bom điện nặng 150 kg lên phục kích đường xe lửa ở Bàu Cá đánh một lúc 02 đoàn xe lửa.

2. Trận đánh La Ngà

Ngày 22/02/1948, Đảng ủy và Ban Chỉ huy chi đội mở hội nghị thông qua quyết tâm chiến đấu. Trận đánh La Ngà diễn ra đúng với dự kiến. Đoàn xe 70 chiếc của địch lọt vào trận địa phục kích của ta kéo dài trên 9 km nằm giữa cầu La Ngà và thị trấn Định Quán. Trong vòng chưa đầy 01 tiếng đồng hồ chiều ngày 01/3/1948, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, thiêu hủy 59 xe, diệt 150 lính lê dương hộ tống đoàn xe, 25 sĩ quan từ Sài Gòn đi dự hội nghị tại Đà Lạt, trong đó có tên đại tá De Sérigné chỉ huy bám lữ đoàn lê dương thứ 13, đại tá Paruist phó tham mưu trưởng thứ nhất quân đội viễn chinh Pháp tại miền Nam Đông Dương. Toàn bộ tù binh và hành khách đi trong đoàn xe được bộ đội bảo vệ chăm sóc chu đáo và đưa trở lại đường 20 về Sài Gòn an toàn.

3. Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên

Thực hiện chiến thuật De Latour, từ đầu năm 1948, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, thực dân Pháp bắt đầu triển khai xây dựng tháp canh. Đến cuối năm 1948, toàn tỉnh Biên Hòa có 78 đồn bót và nhiều tháp canh. Bước sang năm 1949, đồng thời với việc phát triển ngụy binh, chúng xây dựng ồ ạt thêm nhiều tháp canh trên dọc các quốc lộ 1, 15, 20, các tỉnh lộ 24, 16, 2, các lối dẫn vào đồn điền cao su. Nhiều đồn bót tháp canh cũ được xây dựng nâng cấp kiên cố hơn. Đến mùa thu năm 1949, khi thực dân Pháp đã triển khai xong hệ thống tháp canh, toàn tỉnh Biên Hòa có 79 đồn và hàng trăm tháp canh khác. Hệ thống đồn bót tháp canh của địch, với các hoạt động của nó đã gây cho ta rất nhiều khó khăn. Việc di chuyển đi lại của các đơn vị vũ trang không còn được như trước.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh Khu 7, sau khi nghiên cứu kỹ cấu trúc tháp canh và quy luật hoạt động của lính gác, đêm 19 rạng ngày 20/3/1948, đội du kích huyện Tân Uyên do Trần Công An (Hai Cà) chỉ huy tổ chức tập kích vào tháp canh cầu Bà Kiên. Du kích đã dùng thang leo lên thả lựu đạn vào tháp diệt 11 tên địch, thu 08 súng và 20 lựu đạn. Đây là trận đánh tháp canh đầu tiên thu được thắng lợi trên chiến trường miền Đông Nam bộ, mở ra khả năng mới về cách đánh tháp canh địch.

Từ Biên Hòa kỹ thuật đánh tháp canh ra đời, mở đầu cho một cách đánh mới đánh hạ tháp canh, đồn bót giặc. Cách đánh đó, từ giữa năm 1950 đã được Bộ Tư lệnh Nam bộ tổng kết gọi là “cách đánh đặc biệt” gọi tắt là “Đặc công”. Những chiến sĩ đánh tháp canh được gọi là chiến sĩ đặc công. Cách đánh đặc công từ Biên Hòa sau đó từ năm 1951 đã được phổ biến về miền Tây Nam bộ, Khu 6, Khu 5 và chiến trường miền Bắc. Ngày 19 tháng 3, ngày này được binh chủng đặc công công nhận là ngày truyền thống của binh chủng.

4. Diệt cọp Ba Móng

Trong thời gian này, công tác bảo vệ an ninh trong chiến khu còn bao gồm cả việc chống thú dữ. Lúc này tại CKĐ, cọp Ba Móng hoành hành nhiều nơi, giết hại hàng chục người, gây tâm lý sợ hãi trong cán bộ và nhân dân. Thêm vào đó, địch làm giả cọp Ba Móng để hù dọa, tung tin thất thiệt về thú dữ trong căn cứ. Đồng thời, với việc giao nhiệm vụ cho ban quân giới tìm cách diệt cọp. Bộ Tư lệnh khu chỉ thị cho các cơ quan, đơn vị làm hàng rào ngăn cọp đột nhập, nâng cao cảnh giác, đề phòng cọp về bắt người trên đường đi lại công tác, đặc biệt ở chỗ vắng hoặc lúc chiều tối. Phong trào chặt cây làm hàng rào chống cọp xung quanh hội trường, nhà làm việc, nhà ở được triển khai rộng rãi.

Đến đầu năm 1950 cọp Ba Móng bị tiêu diệt, mọi sinh hoạt, công tác căn cứ trở lại bình thường.

5. Trận đánh Dầu Tiếng

Từ năm 1958, Diệm càng đẩy mạnh hơn chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp phong trào cách mạng ngày càng khốc liệt; nhiều cán bộ, đảng viên bị địch giết hại, bắt tù đày, nhiều cơ sở cách mạng bị phá vỡ và nhiều đồng chí không còn điều kiện hoạt động hợp pháp trong nhân dân phải ra CKĐ. Trong khi các đơn vị vũ trang trong căn cứ tiếp tục phát triển, vũ khí lại rất thiếu, lương thực cũng thiếu gay gắt. Trước tình hình đó, được Xứ ủy đồng ý, Ban quân sự và Đảng ủy LLVT miền Đông đã quyết định tổ chức một trận đánh  lớn gây thối động tinh thần địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, đồng thời, giải quyết vấn đề tài chính, lương thực cho lực lượng trong căn cứ và Dầu Tiếng được chọn làm mục tiêu của trận đánh.

Trận đánh Dầu Tiếng gồm các đại đội C60, C80, C90 và các đơn vị vũ trang địa phương các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến làm chỉ huy trưởng. 24 giờ, ngày 10 rạng 11/8/1958, lực lượng ta chia làm 03 mũi tập kích vào các mục tiêu. Sau 30 phút chiến đấu, ta chiếm toàn bộ căn cứ tiểu đoàn cộng hòa và nhà tên chủ sở cao su. Đến 02 giờ 30 phút sáng, ngày 11/8/1958, ta hoàn toàn làm chủ trận địa kể cả khu vực hành chính quận. Ta diệt tại chỗ khoảng 300 tên, bắt sống 200 tên giáo dục và tha tại chỗ. Vũ khí thu được gồm 650 súng, 12 tấn đạn, nhiều quân trang, 05 xe, 1.500.000 tiền ngụy và 500 đô la.

6. Trận đánh cố vấn Mỹ (MAAG)

Tháng 5/1959, bọn Mỹ-Diệm ban hành luật 10/59 lê máy chém đi nhiều nơi giết hại cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước hòng dìm cách mạng Miền Nam trong bể máu. Trước tình hình đó để đánh một đòn thối động mạnh vào âm mưu xâm lược của Mỹ, động viên tinh thần, ý chí chiến đấu chống Mỹ của nhân dân, Ban quân sự Miền quyết định tiến công vào bọn cố vấn Mỹ (MAAG) đang đóng trụ sở tại nhà máy cưa BIF. Một phân đội đặc công do đồng chí Năm Hoa chỉ huy đứng chân tại CKĐ được giao nhiệm vụ này. Thị ủy Biên Hòa đã phối hợp chặt chẽ với phân đội đặc công, tổ chức nhà má Nguyễn Thị Xuân (ở Gò Me) để phân đội cất dấu vũ khí và ém quân, trinh sát. Ngày 06/7/1959, phân đội hóa trang như lính đi tuần từ CKĐ vượt sông Đồng Nai, bí mật đột nhập vào thị xã Biên Hòa. Đêm mùng 07/7/1959, khi tiểu đội bảo vệ của địch vừa đi từ nhà máy cưa về hướng suối Săn Máu, phân đội đặc công nhanh chóng chiếm chỗ bất ngờ tiến công vào trụ sở đoàn cố vấn Mỹ MAAG trong lúc bọn chúng đang xem chiếu bóng. Địch hoàn toàn bị bất ngờ, ta diệt 02 cố vấn Mỹ và làm bị thương 11 tên khác.

7. Trận đánh Tua Hai (Tây Ninh)

Xứ ủy đã tổ chức một cuộc họp bàn về công tác vũ trang và quyết định tổ chức một trận đánh lớn nhằm thúc đẩy phong trào kết hợp vũ trang trong toàn miền. Theo đề nghị của ban quân sự miền Đông, Xứ ủy nhất trí chọn Tua Hai làm điểm. Kế hoạch và phương án tác chiến được chuẩn bị chu đáo và được Xứ ủy thông qua. Đêm 25, rạng sáng ngày 26/01/1960, kết hợp với nội tuyến bên trong, bộ đội miền Đông bất ngờ tiến công các mục tiêu trong Tua Hai. Trận đánh diễn ra nhanh gọn theo đúng kế hoạch. Ta phá được kho súng, thu nhiều vũ khí và rút lui an toàn. Cánh quân rút về CKĐ mang theo 1.500 khẩu súng tịch thu của địch.

Chiến thắng Tua Hai đã có tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng ở Biên Hòa.

8. Trận đánh Phước Thành

Phong trào “Đồng Khởi” trên toàn miền Nam đã làm phá sản chiến lược “tố cộng diệt cộng”, phá rã hàng mảng bộ máy tay sai ngụy quyền Sài Gòn ở cơ sở, buộc đế quốc Mỹ phải chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” hòng giành lại thế chủ động về chiến lược. Trên địa bàn CKĐ (thường gọi là khu A vì đã mở rộng ra phía Đông và Đông Bắc), địch tăng cường lực lượng và đóng thêm đồn, bót, mở rộng tiểu khu Phước Thành thành một cứ điểm quân sự mạnh, làm bàn đạp đánh phá, chia cắt căn cứ, tìm diệt LLVT cách mạng.

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và sự chỉ đạo của Trung ương Cục, tháng 02/1961, Bộ Tư lệnh quân khu miền Đông quyết định thành lập tiểu đoàn 800 chủ lực tập trung của Khu. Sau khi huấn luyện, củng cố, theo chỉ đạo của Khu ủy, tiểu đoàn 800 đã mở hoạt động đầu tiên, mục tiêu là chi khu Hiếu Liêm (nằm ở xã Lạc An), các đồn bót địch cắm trong căn cứ và vũ trang tuyên truyền hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm làm chủ xã, ấp. Tại tỉnh Phước Thành, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân lớn càn quét nhằm đánh bật lực lượng ta ra khỏi căn cứ. Trước tình hình đó, tháng 6/1961, Khu ủy miền Đông quyết định giải thể tỉnh Thủ Biên và tổ chức lại thành 03 tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Phước Thành. Phước Thành là một tỉnh rừng núi bao gồm trung tâm chiến khu phía Đông Bắc Sài Gòn.

Tháng 9/1961, Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu miền Đông quyết định tiến công vào tỉnh lỵ Phước Thành của địch nhằm phá tan ý đồ bao vây chia cắt chiến khu của chúng; mở rộng chiến khu, chuẩn bị đón các đoàn cán bộ của Trung ương tăng cường cho Nam bộ. Đúng 23 giờ, ngày 18/9/1961, quả bộc phá hiệu lệnh nổ tại dinh tên tỉnh trưởng, các cánh quân nhất loạt xung phong đánh chiếm các mục tiêu trong tỉnh lỵ; kết quả, trong 10 phút ta diệt hoàn toàn bọn địch ở trong dinh tỉnh trưởng, giết chết tên tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, bắt sống tên tỉnh phó và vợ tên tỉnh trưởng cùng một số nhân viên quan trọng trong tòa hành chính. Sau đó, lực lượng quân khu phối hợp đại đội đặc công 260 tiến công diệt đại đội bảo an và chi đội thiết giáp; kết quả, trong 20 phút ta hoàn toàn làm chủ các mục tiêu, đến 0 giờ 30 phút, ngày 18/9/1961, trận đánh kết thúc. Ta tiêu diệt hoàn toàn bộ máy chỉ huy quân sự, hành chính của địch ở tỉnh lỵ Phước Thành, diệt 40 tên, làm bị thương 30 tên, bắt sống 11 tên, thu 332 súng các loại, phá hủy 01 pháo 105 ly, 32 máy truyền tin, 12 xe cơ giới, giải thoát 272 tù binh.

9. Trận đánh sân bay Biên Hòa

Ngày 01/10/1964, Bộ chỉ huy Miền quyết định tổ chức một trận tập kích hỏa lực vào sân bay Biên Hòa - lúc này đang được đế quốc Mỹ mở rộng và kiện toàn thành 01 căn cứ không quân chiến lược ở miền Nam. Đây cũng là trận đánh mở đầu góp phần bẻ gẫy từng bước âm mưu tiến công khiêu khích miền Bắc, bảo vệ hậu phương của cách mạng miền Nam, trả thù cho đồng bào ta bị thảm sát ở Ông kèo (nay là xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch). Đoàn pháo binh Miền được giao nhiệm vụ và chuẩn bị thực hiện trận tập kích này. Công tác chuẩn bị hoàn chỉnh, Ban chỉ huy đoàn pháo quyết định lấy ngày N: 31/10/1964 làm ngày tiến công. Trận tập kích do đồng chí Lương Văn Nho chỉ huy. Lúc 17 giờ, ngày 31/10/1964, từ rừng Mỹ Lộc đơn vị hỏa lực hành quân về Rạch Rớ, vượt sông Đồng Nai bằng ghe đã bí mật chuẩn bị từ trước, các bộ phận yểm trợ vào trận địa pháo bố trí tại hốc Bà Thức cách sân bay 1.000 mét. 23 giờ 23 phút, pháo ta bắn dồn dập vào sân bay. Cả thị xã Biên Hòa bị chấn động vì những tiếng nổ dữ dội. Lửa từ sân bay bốc lên sáng rực một góc trời. Sau 17 phút chiến đấu, toàn lực lượng ta vượt sông Đồng Nai về CKĐ an toàn.

Trận tập kích hỏa lực đầu tiên vào sân bay Biên Hòa giành thắng lợi vẻ vang. Ta phá hủy 59 máy bay các loại, 01 kho đạn 105 ly, 01 kho xăng, 01 đài ra đa, phá sập 18 căn nhà lính, diệt 293 tên Mỹ xâm lược. CKĐ địa thế hiểm trở đã đảm bảo cho chủ lực Miền hành quân bí mật tiếp cận mục tiêu; đồng thời tạo một bàn đạp tiến công để đoàn pháo binh Miền giành thắng lợi.

10. Trận đánh Bình Giã

Từ ngày 02/12/1964 đến ngày 03/01/1965, chiến dịch Bình Giã đã nổ ra và giành thắng lợi to lớn, diệt nhiều sinh lực địch tại ấp chiến lược Bình Giã và trên lộ số 2 từ thị xã Bà Rịa đến Bình Giã. Một lần nữa, chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của Mỹ lại thất bại (sau trận ấp Bắc ở Tiền Giang). Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, ta diệt đơn vị quân ngụy cấp tiểu đoàn, trong đó có tiểu đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng tổng trù bị của Sài Gòn. Chiến thắng Bình Giã thể hiện một bước phát triển nhảy vọt của LLVT giải phóng Miền Nam và càng khẳng định vai trò, vị trí của CKĐ là một hậu phương, một bàn đạp tiến công lợi hại.

11. Trận đánh Lộc Ninh

Từ đêm 29/10/1967 đến ngày 08/11/1967, tiến hành đánh điểm chi viện địch ở Lộc Ninh và lộ 13 kết thúc. Ta diệt 05 tiểu đoàn, 13 đại đội quân Mỹ-ngụy (3.500 tên, có 2.000 Mỹ) bắn cháy 45 xe tăng và 13 máy bay các loại. Với chiến thắng Lộc Ninh, ta cắt đứt giao thông địch trên đường 13, diệt nhiều sinh lực địch, đồng thời mở rộng CKĐ về phía Bắc, tạo thế liên hoàn từ căn cứ lên Nam Tây Nguyên, nối thông với biên giới Campuchia mở rộng hành lang tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương.

12. Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968

Đêm 30/01/1968, lệnh tiến công và nổi dậy được truyền đi. Từ bàn đạp CKĐ, các LLVT của Miền, phân khu 5 gồm trung đoàn Đồng Nai và 05 tiểu đoàn hành quân tiến công vào các mục tiêu. Các xã ven căn cứ, ở hai bờ sông Đồng Nai (Nam CKĐ), du kích và nhân dân đã nổi dậy diệt ác phá kềm, diệt các bót lính ngụy, giành quyền làm chủ xã ấp.

Kết thúc đợt 1 Mậu Thân 1968, các đơn vị chủ lực Miền và phân khu đã rút về CKĐ. Nhờ công tác đảm bảo vật chất tốt, hậu cần phân khu 5 và các đoàn hậu cần Miền ở phía sau đã tạo được đầu cầu cho các lực lượng tiến công địch trong Sài Gòn; hoàn thành được nhiệm vụ điều trị, cứu chữa thương binh, cung cấp lương thực bồi dưỡng các lực lượng để tiếp tục hoạt động.

Trong đợt 2 và 3 của cuộc tiến công và nổi dậy 1968, các LLVT chủ lực Miền, phân khu từ bàn đạp CKĐ đã tập kích bằng pháo vào các thị trấn Phước Bình, chi khu Lộc Ninh, tiểu khu Bình Long gây cho địch nhiều thiệt hại.

13. Chiến dịch Nguyễn Huệ.

Ngày 31/3/1972, chiến dịch Nguyễn Huệ bắt đầu. Chủ lực Miền tiến công vào Sa Mát (lộ 22 Tây Ninh) nghi binh thu hút địch.

Trên hướng Nam và Tây Nam CKĐ, bộ đội chủ lực phân khu 5 và bộ đội địa phương huyện Tân Uyên tiến công diệt đồn An Lợi, Tân Bình. Pháo binh phân khu, tập kích vào sân bay Biên Hòa, căn cứ Phú Lợi, Phước Vĩnh, tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Ngày 09/5/1972, Trung ương Cục ra Chỉ thị 03/CT-72 nhấn mạnh, phải sử dụng lực lượng quân sự cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tiến hành những quả đấm thật mạnh, làm đòn xeo đắc lực và kết hợp với cao trào đấu tranh chính trị, binh vận thành sức mạnh tổng hợp áp đảo và đập nát chỗ dựa chủ yếu của địch trong từng khu vực.

Ở phía Nam CKĐ, cuối tháng 7, bộ đội huyện Tân Uyên và du kích xã Bình Cơ bao vây cô lập địch ở bót Bình Cơ suốt một tuần, cắt đứt giao thông đường 16. Ngày 19/8/1972, để thống nhất chỉ đạo chiến trường miền Đông Nam bộ, Trung ương Cục quyết định thành lập Khu ủy và Bộ Tư lệnh miền Đông. Phong trào đánh phá bình định trong căn cứ cũng có bước phát triển mới. LLVT bên ngoài đã phối hợp chặt chẽ với du kích mật và cơ sở bên trong nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt ác phá kềm, giải tán các đội phòng vệ dân sự, phá lỏng thế kìm của địch trong các ấp.

Trên chiến trường miền Đông nói chung và địa bàn CKĐ nói riêng, địch ra sức phản công ác liệt, hòng giành thắng lợi quân sự, tạo thế mạnh trên bàn hội đàm ở Paris.

Cuối năm 1972, chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam bộ kết thúc và giành thắng lợi lớn, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

14. Trận đánh giải phóng Phước Long

Bộ Tư lệnh Miền và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 hạ quyết tâm tiến công giải phóng toàn bộ Phước Long hoàn chỉnh căn cứ địa ở miền Đông. Kế hoạch đánh tiểu khu Phước Long được Bộ Chính trị chấp thuận. Tỉnh Phước Long cách Sài Gòn 120 km về phía Đông Bắc, địa hình rừng núi. Lực lượng chúng có khoảng 2.300 tên gồm quân chủ lực sư đoàn 5, 03 tiểu đoàn bảo an, 01 đại đội trinh sát, 1.500 phòng vệ dân sự, 01 đại đội xe cơ giới, 08 cụm pháo 105 ly, 02 pháo 155 ly.

Quân ta bắt đầu tiến công từ ngày 01/01/1975 đến 19 giờ, ngày 07/01/1975, đánh chiếm và giải phóng hoàn toàn thị xã Phước Long. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh do địch kiểm soát.

15. Trận đánh giải phóng Chơn Thành

Ngày 29/3/1975, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 15 đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là: Phải tập trung cao độ nhất mọi sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa với khí thế tiến công quyết liệt thần tốc, táo bạo và quyết giành thắng lợi, giải quyết xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam. Đồng thời, phải tranh thủ thời gian, vì thời gian lúc này là sức mạnh, phải thật tập trung từng giờ, từng ngày, từng tháng từ đầu tháng 4/1975.

Ngày 31/3/1975, thực hiện quyết tâm của Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 15, Sư đoàn 7 Miền cùng bộ đội địa phương Bình Long tiếp tục tiến công vào quận lỵ Chơn Thành, đã đánh tan rã bọn địch cố thủ ở chi khu, giải phóng hoàn toàn huyện Chơn Thành, tuyến phòng thủ của địch ở hướng Bắc Sài Gòn hoàn toàn bị tan vỡ.

16. Chiến dịch Xuân Lộc

Ngày 01/4/1975, Thượng tướng Trần Văn Trà thay mặt Bộ tư lệnh Miền xuống căn cứ Khu ủy miền Đông triển khai nhiệm vụ mới cho miền Đông. Hội nghị đã quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh: Tuyến phòng thủ sau cùng của địch ở phía Đông Sài Gòn. Theo chỉ đạo của Khu ủy, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Huyện ủy Tân Uyên, Phú Giáo, Vĩnh Cửu nhanh chóng tăng cường các cấp ủy về cơ sở, củng cố bộ đội địa phương cùng du kích và cơ sở mật tiến hành công tác binh vận, tuyên truyền diệt ác phá kềm, chuẩn bị đón lực lượng chủ lực và nổi dậy giành quyền làm chủ giải phóng xã, ấp.

05 giờ 30 phút sáng, ngày 09/4/1975, chiến dịch Xuân Lộc bắt đầu. Quân đoàn 4, cùng bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa-Long Khánh tiến công vào thị xã Long Khánh - một trong ba tuyến phòng thủ chủ yếu của địch ở quân đoàn III. Ngày 21/4/1975, ta giải phóng thị xã Long Khánh. Tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở phía đông Sài Gòn bị đập tan, mở đường cho Quân đoàn 4 hành quân cơ giới về đánh chiếm thị xã Biên Hòa, tiến về Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, cùng toàn miền Nam, bộ đội chủ lực Miền và Quân khu đã tiến hành nhiều chiến dịch ở miền Đông mở mảng mở vùng giải phóng. Với chiến dịch mùa khô 1973-1974 và chiến dịch đường 14-Phước Long, ta mở rộng hoàn chỉnh vùng căn cứ địa CKĐ, cùng với vùng căn cứ Tây Nguyên, khu 6, khu B, khu C thành một hậu phương trực tiếp cho cách mạng ở miền Nam. CKĐ đã tạo được thế đứng vững vàng cho các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy ở miền Đông, nơi dự trữ một số lượng lớn cơ sở vật chất, kỹ thuật tạo được một bàn đạp tiến công cho các binh đoàn chủ lực tiến công ở hướng Bắc, Đông Bắc giải phóng Sài Gòn, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

IV. CHIẾN KHU - NƠI RA ĐỜI TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM

Tháng 01/1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam bộ cũ. Ngày 10/10/1961, lễ thành lập Trung ương Cục được long trọng tổ chức tại Mã Đà (CKĐ), đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các ủy viên Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Đáng, Lê Quang Xô, Trương Công Thuận, Phạm Thái Bường. Các cơ quan tham mưu của Trung ương Cục được thành lập để đẩy nhanh tốc độ phát triển lực lượng cách mạng. Căn cứ của Trung ương Cục đóng tại Suối Nhung. Từ đây, những chủ trương, đường lối của Trung ương, của Bộ Chính trị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được tỏa đi khắp nơi. Các chủ trương xây dựng phong trào, mệnh lệnh tác chiến cũng từ vị trí lịch sử này phát ra.

Lúc đầu Trung ương Cục miền Nam được Trung ương giao nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng từ khu 5 trở vào, do đó Trung ương Cục chọn CKĐ mở rộng (khu A) - căn cứ nối liền nam Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ làm nơi đặt cơ quan lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam.

Tháng 3/1961, Trung ương Cục giao cho T1 (khu miền Đông) nhiệm vụ xây dựng căn cứ khu A thành một căn cứ địa hoàn chỉnh. Mở rộng diện tích sản xuất trong căn cứ, dự trữ vật chất để đón cán bộ, chiến sĩ từ Trung ương vào miền Nam chiến đấu. Xây dựng LLVT tập trung cơ động từ 1 đến 2 tiểu đoàn. Tổ chức du kích gắn liền với lực lượng bảo vệ sản xuất, bảo vệ đường giao liên. Tổ chức đường dây liên lạc, nối liên Trường Sơn với các tỉnh, đường dây trong căn cứ từ đường 14 Đồng Xoài xuống Vĩnh An, Cây Gáo.

V. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CKĐ

- Lịch sử CKĐ là lịch sử xây dựng căn cứ địa và hoạt động đáp ứng những nhu cầu của một căn cứ địa kháng chiến, một hậu phương chiến lược tại chỗ của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Với ưu điểm về điều kiện địa hình, vốn mang sẵn những yếu tố có ý nghĩa tiền đề cho việc xây dựng căn cứ, ngay sau ngày thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, vùng rừng núi Tân Uyên đã dần dần trở thành một căn cứ kháng chiến. Xuất phát từ nhu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến về xây dựng chỗ đứng chân, tích trữ lực lượng mọi mặt, CKĐ ngày càng được xây dựng mở rộng và phát triển hoàn chỉnh. Từ một khoảng rừng nhỏ thuộc huyện Tân Uyên nằm trên bờ bắc sông Đồng Nai phát triển thành vùng đất đai rộng lớn phía đông đường 13, nối liền với các căn cứ và vùng đất quan trọng trên các chiến trường xung quanh. Từ là nơi ẩn giấu một bộ phận vũ trang nhỏ phát triển thành căn cứ của tỉnh Biên Hòa, của khu 7, phân liên khu miền Đông và toàn Nam bộ.

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, CKĐ nổi bật như là một trung tâm kháng chiến của toàn chiến trường miền Đông. Đó là nơi các lực lượng kháng chiến rút về củng cố xây dựng và tích trữ lực lượng làm chỗ dựa cho cuộc kháng chiến lâu dài, là “Chiến khu Việt Bắc” của miền Đông Nam bộ, nơi có các cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở và từ đó phát đi những chỉ thị, mệnh lệnh đến các vùng, các chiến trường; nơi xây dựng một xã hội mới, độc lập và dân chủ, nơi gửi gắm niềm tin, lòng tự hào của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở miền Đông Nam bộ nói riêng. CKĐ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan quân sự thuộc nhiều huyện, tỉnh lân cận đến khu 7, Phân liên khu miền Đông và Nam bộ, trong đó thường xuyên nhất là tỉnh Biên Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một và Khu 7. Đây cũng là nơi xây dựng các đơn vị vũ trang tập trung các cấp, từ phân đội nhỏ lẻ buổi đầu kháng chiến đến chi đội (1,10), trung đoàn (301, 310), liên trung đoàn (301-310), tiểu đoàn chủ lực 303, tiểu đoàn vận tải 320.… Ngoài ra, còn có hàng ngàn chuyến giao thông liên lạc từ Trung ương đã đi qua đầu mối CKĐ, để từ đó tỏa về các tỉnh. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng như: Đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Lê Đức Thọ ... từ Trung ương vào Nam bộ và ngược lại đã đi an toàn qua CKĐ. Từ giữa năm 1952 đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, nơi đây là đầu cầu của một đoạn đường vận tải chiến lược của tiểu đoàn 320 từ vùng giải phóng Bình Thuận khu 5 vào Nam bộ, nối thông mạch máu lưu chảy từ Trung ương đến khắp các chiến trường miền Nam.

- Trong kháng chiến chống Mỹ, do đặc điểm, quy mô của cuộc chiến tranh biến đổi nên phạm vi, vai trò của CKĐ cũng biến đổi theo. Vùng rừng căn cứ ngày càng được mở rộng lên hướng Bắc và Đông Bắc và là căn cứ quân sự của ta trên chiến trường miền Đông Nam bộ. Danh từ CKĐ (mở rộng) gắn liền với lịch sử thành lập và hoạt động của những đơn vị vũ trang mạnh, những tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và hàng loạt trận đánh, chiến dịch mà kết quả của nó đã góp phần tạo nên những bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh. Sự tồn tại và phát triển của nó đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Địa bàn CKĐ là nơi xây dựng đứng chân của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, của LLVT từ huyện, tỉnh, liên tỉnh, quân khu đến Trung ưong Cục. Từ đây, đã ra đời những đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của miền Đông và của Xứ ủy như: C50, C9, C80, C59, C200, C250, rồi tập trung thành tiểu đoàn 800, tiểu đoàn 500, trung đoàn Đồng Nai. Đây cũng là nơi thành lập và đứng chân tác chiến của lực lượng quân chủ lực Miền như trung đoàn 762, sư đoàn 9, sư đoàn 5, sư đoàn 7, và trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 là nơi tập kết của lực lượng Quân đoàn 1, Quân đoàn 4 trước khi tiến về giải phóng Sài Gòn. CKĐ là một trong những hậu phương trực tiếp, tại chỗ của chiến trường Nam bộ và khu 6, là đầu mối giao thông chiến lược từ Trung ương vào Nam bộ, là nơi tiếp nhận, cất giữ, chuyển phát cơ sở vật chất, cung cấp một phần vật lực cho cuộc kháng chiến. Mặc dù của ít người thưa, CKĐ vẫn luôn là một chỗ dựa tin cậy của các lực lượng kháng chiến với tư cách một hậu phương tại chỗ. Đất đai để trồng tỉa, sông suối cho cá tôm, rừng cho thịt động vật và cây lá cho củ, quả, thuốc chữa bệnh. Có những đơn vị cơ quan trong thời kỳ cam go nhất đã hoàn toàn sống nhờ vào sự cung cấp của thiên nhiên chiến khu. Và những làng công nhân cao su, những xóm ấp nông dân, những buôn sóc đồng bào dân tộc thiểu số là hệ thống pháo đài bảo vệ chiến khu, nơi mà các lực lượng cách mạng được che chở, nuôi dưỡng và bổ sung sức người, sức của. Hệ thống kho tàng dự trữ, các cơ sở sản xuất nông nghiệp, sản xuất vũ khí và các ngành công nghệ khác trong chiến khu đã đảm bảo một phần quan trọng công tác hậu cần cho các lực lượng kháng chiến. Đồng thời, CKĐ là nơi tập kết của các lực lượng cán bộ Đảng, cán bộ quân sự của Trung ương chi viện hành quân bộ vào Nam bộ. Sau khi xây dựng tuyến đường vận tải chiến lược xuyên Trường Sơn, CKĐ là nơi tiếp nhận, cất giấu và chuyển phát, là một trạm tung chuyển sức người sức của từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam.

- CKĐ gắn liền với những chiến thắng vang dội trong lịch sử chống ngoại xâm của quân và dân miền Đông Nam bộ, đó là: Chiến thắng Lạc An, Tân Uyên, Nhà Nai, Mã Đà, cầu Bà Kiên và hàng chục trận đánh bại các cuộc càn quét qui mô lớn kéo dài hàng tháng trời của địch trong kháng chiến chống Pháp; là chiến thắng Phước Thành, Đất Cuốc, Đồng Xoài, đường 14 - Phước Long... trong kháng chiến chống Mỹ. CKĐ không chỉ là chiến trường tiêu diệt địch mà còn là nơi xuất phát, là một bàn đạp lợi hại của ta trong tiến công. Cả trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, không thể kể hết những trận đánh, chiến dịch vang dội mà lực lượng làm nên chiến thắng đã lấy CKĐ làm bàn đạp. Đó là trận tiến công thị xã Biên Hòa tháng giêng năm 1946, 1947, hàng loạt trận đánh giao thông trên chiến trường Biên Hòa, Thủ Dầu Một trong đó đáng kể nhất là trận Bàu Cá, Đồng Xoài năm 1947, trận Là Ngà năm 1948. CKĐ là nơi thí điểm thành công, mở đầu cho phong trào đánh sập tháp canh địch khắp các chiến trường cả nước, trở thành cái nôi của sự hình thành một binh chủng mới của quân đội ta-binh chủng đặc công. Đó là, hàng loạt trận tiến công tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy các kho tàng, cầu đường, sân bay và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ-ngụy. Trong đó, có những trận đánh, chiến dịch mà tiếng vang của nó không chỉ dừng lại trong biên thổ Việt Nam như: Dầu Tiếng (năm 1958), sân bay Biên Hòa (năm 1964), chiến dịch Bình Giã (năm 1964-1965), Xuân Mậu Thân (năm 1968), chiến dịch Nguyễn Huệ (năm 1972). Cũng từ đây, Quân đoàn 1 và Quân đoàn 4 đã tiến về giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.

- Về phương diện chính trị, tinh thần, CKĐ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn miền Đông Nam bộ nói riêng. Trong những ngày chống Pháp gian khổ, CKĐ hiển hiện như hình mẫu một xã hội mới, một trung đoàn văn hóa chính trị của cuộc kháng chiến. Chuyện kể về đời sống mọi mặt trong chiến khu, các loại sách báo kháng chiến, giấy bạc Cụ Hồ ... được đồng bào từ các vùng tạm bị chiếm thành thị, nông thôn hân hoan đón nhận và gìn giữ, lưu truyền. Sự lớn mạnh của LLVT tại chiến khu và những chiến thắng quân sự của ta làm nức lòng đồng bào khắp nơi, cổ vũ thôi thúc họ hăng hái tham gia kháng chiến.

- Đồng bào khắp nơi luôn luôn hướng về CKĐ, thở cùng nhịp thở với chiến khu trong từng bước lịch sử thăng trầm. Những phong trào nêu trên không chỉ nói lên tấm lòng thủy chung, luôn hướng về cách mạng của đồng bào khắp nơi mà còn chứng tỏ uy tín, vai trò của CKĐ đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta. “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất” là một đánh giá không chỉ về vị trí mà cả về vai trò, tác dụng của nó trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

 

 

*****

Ngày nay, CKĐ xưa là vùng đất sôi động của những cánh đồng lúa ven sông, những nông trường cao su trải rộng, những lâm trường bạt ngàn, những nhà máy, công trình thủy điện Trị An và những dự án, công trình văn hóa tiêu biểu đã, đang và sẽ triển khai tại Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa, Lịch sử Đồng Nai. Dấu tích của một căn cứ kháng chiến tồn tại trong gần một phần ba thế kỷ, trước những chuyển đổi lớn lao của cuộc sống mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền Đồng Nai, nó đã trở thành địa chỉ đỏ trong giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho thế hệ hôm nay./.

                                                                  BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY

THPT Nguyễn Hữu Cảnh
Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, 07/12/2016 - 07:25:06


TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN HỮU CẢNH
Địa chỉ: Khu phố 1 - Long Bình Tân, Biên Hòa - Đồng Nai 81000
Điện thoại: (0251) 3.834.466
    228,485
    703
© 2015 Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Hữu Cảnh.
Thiết kế & phát triển bởi Trung tâm Thông tin Tư liệu Trường Đại học Lạc Hồng .